Tôi một mình trở lại Huế trong nỗi nhớ hối thúc, nôn nao hệt như cảm giác mong được gặp lại cố nhân. Huế khi ấy đang ở cuối độ "Mùa hạ cháy da thêu vàng ngọn cỏ" và chuẩn bị bước vào những tháng mà "Mưa sợi ngắn, mưa sợi dài. Mưa dầm dề, mưa rả rích. Mưa như thế mà Trịnh Công Sơn gọi là mưa hồng". Đi qua những đồng lúa xanh mướt trải dài dọc từ Hà Tĩnh vào Quảng Trị, tôi đến bến xe phía Nam của thành phố Huế lúc 3h chiều. Huế đón tôi bằng cơn mưa tầm tã trong cảm xúc vỡ òa ngày trở lại.
Về Huế lần này, tôi lại về vãn cảnh chùa Thiên Mụ. Vẫn như lần đầu tiên đến đây, bước qua khỏi cổng chùa ta đã thấy hồn nhẹ bẫng và lắng lại như thể đang đi vào không gian của trăm năm thanh tịnh và thơ mộng. Tháp Phước Duyên vẫn vòi vọi soi bóng xuống dòng Hương lững lờ đầy thi vị. Ở chốn này ta bỗng nhiên không còn nghe thấy những tiếng ồn ào náo nhiệt của cuộc sống ngoài kia, chỉ có tiếng bước chân du khách chậm rãi thỉnh thoảng xào xạc trên lá và tiếng đò máy lướt nhẹ trên sông.
Về lại Huế, tôi tìm lại quán bún thịt nướng Huyền Anh, một quán ăn vặt nằm trong một con hẻm nhỏ trên đường Kim Long mà tôi rất thích. Như một đứa con lâu ngày không được ăn đồ mẹ nấu, tôi gọi một loạt các món, mỗi thứ một ít, nào là bún thịt nướng, bánh ít, bánh xèo, bánh bèo rồi cứ thế mà ngấu nghiến thưởng thức những hương vị tôi đã rất nhớ nhung này.
Về lại Huế, tôi tìm đến "Chiều" quán, một quán café nhạc Trịnh nho nhỏ trên đường Đặng Thái Thân để lại được chìm đắm trong tiếng hát Khánh Ly đầy khắc khoải. Người Huế hay nói: "Nghe nhạc Trịnh phải nghe ở Huế mới thấm nhất, nghe ở nơi khác vẫn hay nhưng cũng sẽ giống như khi ăn bún bò Huế ở Hà Nội hay Sài Gòn vậy". Tôi từng thắc mắc về điều ấy, nhưng sau này, khi lại Huế nhiều lần, ở Huế nhiều ngày, nói chuyện với nhiều người Huế, tôi đã có câu trả lời cho riêng mình. Café "Chiều" không biển hiệu, nằm kín đáo dưới những tán bàng già cỗi. Không gian nơi này mang đến cho chúng ta những khoảng lặng, những cảm nhận rất rõ về ý niệm thời gian với cách bài trí đơn giản, mộc mạc và cũ kỹ rất tình. Thêm một lý do tôi thích nơi này là bởi mọi người đến đây để thưởng nhạc, để uống trà, để đàm đạo hay đơn giản giống như tôi là để mặc cho hồn mình phiêu du nên sẽ chẳng bận tâm đến những người xung quanh, và vì thế, tôi sẽ không phải bắt gặp những ánh mắt hiếu kỳ của ai đó dành cho mình. Và cũng ngay trong buổi tối hôm đó tôi có thêm hai người bạn mới - một họa sĩ, một thầy giáo dạy vẽ và một cô bé kém tôi vài tuổi vừa tốt nghiệp đại học nhưng tính cách người lớn hơn tuổi tự nhận là mình "già trước tuổi". Bình trà cứ châm hết nước này đến nước khác và câu chuyện của chúng tôi cứ thế kéo dài đến tận gần nửa đêm.
Trong những ngày ở đây, tôi có một thú vui là chạy xe lang thang khắp những con đường từ bờ Nam sang bờ Bắc, lang thang khắp các ngõ ngách phố phường, la cà vào các quán xá vỉa hè, nói chuyện với những người xa lạ hay chạy xe ra những vùng ngoại ô của Huế. Hôm nào cũng vậy, tôi rời khỏi khách sạn từ lúc sáng sớm và trở về khi cả thành phố đã chuẩn bị đi vào giấc ngủ.
Ở Huế, tôi yêu mỗi sớm đạp xe trên những con phố rợp bóng cây, rồi lại ghé một quán vỉa hè nào đó ngắm nhìn cuộc sống xung quanh. Tôi mê áo dài trắng và càng yêu chiếc áo dài trắng tinh khôi của những nữ sinh Đồng Khánh trong mỗi sáng đến lớp hay những chiếc lưng áo đẫm mồ hôi mỗi buổi tan trường.
Ở Huế, tôi yêu những buổi chiều thơ thẩn dạo quanh khu Đại Nội rồi chờ mặt trời xuống dần trên nóc hoàng thành. Tôi vẫn nhớ vào thời khắc ánh tà dương buông xuống, hoàng thành càng trở nên đẹp uy nghi và huy hoàng. Trong đầm bao quanh khu Đại Nội, sen vẫn hồng thắm dù Huế khi ấy đã vào cuối mùa sen.
Buổi tối, tôi thích hòa vào dòng người đi bộ trên phố Nguyễn Đình Chiểu hay đơn giản chỉ là đứng bên dòng Hương để gió thổi tóc tung bay.
Ở Huế, tôi yêu những gánh cúc vàng ươm, những gánh chuối các mệ tất tả gánh đi mỗi buổi sáng sớm, yêu cả khói thuốc các mệ phả vào không gian. Tôi yêu những tách trà thơm lừng những khi ngồi nhâm nhi ngắm mưa bên ô cửa kính, yêu giọng Huế nhỏ nhẹ thâm trầm, yêu cả những nụ cười xa lạ.
Về lại Huế, tôi về Vĩ Dạ để ăn cơm hến, để lại được nghe tiếng mệ mệ con con rất đỗi thân thương. Dù Vĩ Dạ ngày nay không còn là thôn Vĩ Dã như trong thơ Hàn Mặc Tử mà đã trở thành phường Vĩ Dạ, nhưng với những người đã cảm Vĩ Dạ "bằng những nét tâm tưởng" chứ không chỉ nhìn bằng mắt thì những cảm xúc về nơi ấy vẫn dạt dào. Tôi tìm hỏi nhà mệ Thuận vì mấy năm trôi qua nên cảnh vật cũng đã phần nào đổi khác. Kia rồi, nhà mệ hiện ra hiền hòa dưới những tán cây xanh mướt và những giàn hoa loa kèn leo kín tường. Đó là một buổi trưa thật đẹp với với đĩa cơm hến thơm lừng, với ly chè ngô ngậy bùi và những câu chuyện xúc động của Mệ.
Mỗi người đến Huế sẽ có những cảm nhận khác nhau. Có người thấy Huế trầm mặc và buồn tha thiết, ngày mưa ở Huế thì buồn không tả. Riêng tôi, tôi thấy Huế ngày nay đã chuyển mình khoác một chiếc áo mới đầy màu sắc sống động vui tươi để đón chào du khách muôn nơi và một lượng khách nước ngoài đông đảo, nhưng Huế, cùng với sự hiện đại, phát triển vẫn cứ là vẻ đẹp kín đáo với những nét hoài cổ. Huế tao nhã, trữ tình và sâu lắng nhưng lại có gì đó trong trẻo, hồn nhiên. Huế mềm mại, dịu ngọt rất con gái, nhưng lại tiềm tàng sức sống mạnh mẽ của những cảm xúc mãnh liệt. Và người Huế thì vẫn cứ mộc mạc, chân tình quá đỗi. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Đỗ Thị Thanh Bình đã phải thốt lên: "Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư".
Nhắc đến Huế nhiều người sẽ nghĩ ngay tới các di tích chùa chiền, lăng tẩm, miếu mạo nhưng với tôi, tôi muốn chia sẻ những cảm xúc bằng những điều bé nhỏ, đơn sơ rất đời thường ở Huế.
Đây là lần thứ 3 tôi đến đây và chắc chắn còn về thăm nơi này nhiều lần nữa. Hôm tôi nói với Huyên, người em gái Huế tôi mới quen rằng một ngày mùa đông nào đó tôi sẽ trở lại để cùng thấm cái lạnh cắt da cắt thịt trong những ngày mưa dầm dề ẩm ướt mùa đông xứ Huế, Huyên bảo: "Trời ơi, chị sẽ sợ mà không dám quay lại Huế mất thôi vì mùa đông Huế rét dữ lắm, bao nhiêu cái rét dồn hết vào đây rồi mưa hết ngày này đến ngày khác, ai cũng sợ đến Huế vào mùa đông". Tôi cười bảo em: "Tôi sẽ trở lại".
Trở về sau chuyến đi, ngồi xem lại những bức ảnh tôi đã chụp trong những ngày ở đây, tôi càng thấm rằng, Huế không chỉ đẹp bởi phong cảnh mà "nét đẹp ấy nằm trong những cảnh tượng, những khoảnh khắc", trong những thứ tưởng chừng nhỏ bé hết sức giản dị mà đôi khi người ta dễ bỏ qua. Đó giống như vẻ duyên dáng của một người thiếu nữ, cái duyên ấy không thể nhìn ra ngay được, cũng không thể chụp lại bởi những bức ảnh mà phải cảm nhận bằng cả tâm hồn.
Và tôi nhớ đến một bài viết của nhà văn Trần Thùy Mai, một người con sinh ra và lớn lên ở xứ Huế, bà nói rằng bà đã từng ước mình có thể "vẽ lại làn sương trên dòng sông Hương và con thuyền mảnh mai đang từ từ ló ra khỏi cái khối trắng mờ đang trùm lên nó", bà “sẽ vẽ cái màu nắng trong vắt lung linh lọc qua những cành sứ nhỏ đầy hoa trắng, vẽ cả mùi thơm ngây ngất và cả phản chiếu giữa màu hoa với màu áo trắng, màu nắng và cả màu mắt thiếu nữ", rồi biết đâu "sẽ vẽ cả tiếng chuông chùa thăm thẳm trong đêm im lặng..."
Rồi thì tôi cũng ước giá như tôi có thể vẽ lại màu của sương, màu của mưa, màu của những hạt nắng lấp lánh rớt trên những tán lá nơi nhà vườn An Hiên, giá mà tôi có thể vẽ được cái mùi ngát thơm của sen, vẽ đôi mắt và màu khói thuốc của các mệ bên những gánh hàng rong, vẽ được tiếng xì xào của cây lá trong vườn nhà mệ Thuận, vẽ được vẻ đẹp của những bình sen úa tàn ở Chiều quán, vẽ được làn khói lam chiều và màu hoàng hôn trên đồi Vọng Cảnh, vẽ được cái vị nồng nồng, những vạt nắng lưa thưa trong buổi chiều lộng gió thật đẹp ở đầm Chuồn mà không phải chỉ chụp bằng chiếc máy ảnh kia...