Tìm kiếm

 

Thống kê truy cập
Truy câp tổng 7.737.917
Truy câp hiện tại 2.977
Xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú: Cơ hội tôn vinh các nghệ nhân có công lao bảo tồn, gìn giữ di sản văn hóa
Lượt đọc: 128634Thời gian: 15:42 - 25/09/2014

(VHH) - Ngày 25/6/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2014/NĐ-CP quy định về xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Đây là cơ sở tôn vinh xứng đáng những nghệ nhân tài năng và tâm huyết với di sản văn hóa dân tộc.

Xét tặng theo nhiều tiêu chuẩn

Nghị định số 62 gồm 5 chương, 18 điều quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân (NNND), Nghệ nhân ưu tú (NNƯT). Theo đó, đối tượng áp dụng của Nghị định là công dân Việt Nam đang nắm giữ, truyền dạy và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thuộc các loại hình: Tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; tri thức dân gian và các tổ chức, cá nhân liên quan tới hoạt động xét tặng danh hiệu NNND, NNƯT.

Về tiêu chuẩn xét tặng, ngoài tiêu chuẩn trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, tổ chức, địa phương; có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu trong cuộc sống, tâm huyết, tận tụy với nghề, được đồng nghiệp và quần chúng mến mộ, kính trọng, đào tạo được cá nhân đang tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể; NNND phải là người có tài năng nghề nghiệp đặc biệt xuất sắc, có cống hiến to lớn, tiêu biểu cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong phạm vi cả nước, thể hiện ở việc nắm giữ kỹ năng, bí quyết thực hành di sản văn hóa phi vật thể, có thành tích, giải thưởng, sản phẩm tinh thần hoặc vật chất có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, thẩm mỹ, kỹ thuật; có thời gian hoạt động trong nghề từ 20 năm trở lên và đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu NNƯT.

NNƯT là người có tài năng nghề nghiệp đặc biệt xuất sắc, có cống hiến to lớn, tiêu biểu cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của địa phương, thể hiện ở việc nắm giữ kỹ năng, bí quyết thực hành di sản văn hóa phi vật thể, có thành tích, giải thưởng, sản phẩm tinh thần hoặc vật chất có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, thẩm mỹ, kỹ thuật; có thời gian hoạt động trong nghề từ 15 năm trở lên.

Theo Nghị định, NNND, NNƯT sẽ được nhận Huy hiệu, Giấy chứng nhận của Chủ tịch Nước và tiền thưởng kèm theo danh hiệu NNND hoặc NNƯT theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng. Đối với NNND, NNƯT có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng theo quy định của Chính phủ. Đi kèm với quyền lợi thì các nghệ nhân được công nhận phải có nghĩa vụ không ngừng hoàn thiện và truyền dạy tri thức, kỹ năng...

 Cơ hội tôn vinh nghệ nhân có công lao bảo tồn, gìn giữ di sản văn hóa

Ngày 08/8/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định số 2508/QĐ-BVHTTDL ban hành Kế hoạch xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Trên cơ sở đó, việc tiến hành lập hồ sơ, quy trình và thủ tục để đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân đang được tỉnh Thừa Thiên Huế tích cực triển khai theo tiến độ.

Huế là vùng đất hiện còn lưu giữ và bảo tồn nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc và vùng miền. Trong đó, đội ngũ các nghệ sĩ, nghệ nhân bao thế hệ đã và đang có nhiều cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp này. Dù không nhiều cơ hội được vinh danh, nhưng nhiều năm qua, các nghệ nhân dân gian vùng đất Cố đô Huế vẫn mãi mê, âm thầm truyền dạy, giữ lửa để gìn giữ, bảo tồn các giá trị đặc sắc, độc đáo của di sản văn hóa của dân tộc, của vùng đất Cố đô Huế, trong số đó có rất nhiều nghệ nhân, những nhà nghiên cứu dân gian - những báu vật sống đã dồn hết tâm huyết của mình bảo tồn và phát triển các bộ môn nghệ thuật, ngành nghề truyền thống, các giá trị văn hóa, lễ hội, văn chương, ngôn ngữ và nhiều giá trị văn hóa phi vật thể quý giá mà cha ông đã để lại.

Nghị định 62 được ban hành không chỉ là niềm mong mỏi của những người làm quản lý, nhà nghiên cứu và của các nghệ nhân mà còn tiếp thêm sức mạnh cho những con người đã tâm huyết một đời vì di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Đối với những người làm công tác quản lý, đây là cơ sở pháp lý để tôn vinh, động viên và trả nghĩa được cho những người đã có cống hiến trong việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Với nhà nghiên cứu có điều kiện thông qua các nghệ nhân tiếp cận, thu thập những tư liệu - phần hồn của di sản đang đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền. Đối với những nghệ nhân, nhất là những nghệ nhân cao tuổi được vinh danh là niềm vinh dự, tự hào, đối với lớp nghệ nhân trẻ là nguồn động viên cho các thế hệ nghệ nhân, con cháu sau này nhiệt huyết, phát huy tài năng, trí tuệ tiếp nối để bảo vệ di sản. Có thể nói, Nghị định 62 đã đem lại nguồn sinh khí mới trong việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa dân tộc.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có hàng chục nghệ nhân dân gian, tuổi đời đã cao, sức đã yếu. Trong số đó, có không nhiều những nghệ nhân dân gian đáp ứng được tiêu chuẩn đề nghị xét tặng danh hiệu NNND, NNƯT. Theo tiêu chí xét tặng, có quy định các nghệ nhân phải tích cực biểu diễn, truyền dạy, nhưng với các nghệ nhân lớn tuổi, sức khỏe kém thì họ không còn khả năng để biểu diễn hay truyền dạy. Với các nghệ nhân trẻ thì vài năm gần đây mới đào tạo, bồi dưỡng thì việc đảm bảo thời gian quy định có tối thiểu thời gian hoạt động là 15 năm là một vấn đề nan giải. Bên cạnh đó, yêu cầu về những thủ tục, tài liệu minh chứng, mô tả tri thức, kỹ năng, bí kíp đang nắm giữ cùng với những bản thành tích, khen thưởng được công chứng hoặc chứng thực là phần không thể thiếu trong hồ sơ lại đang gây khó khăn và làm nản lòng cho nhiều nghệ nhân muốn làm hồ sơ đề nghị xét tặng.

Thêm nữa, với những nghệ nhân cao tuổi, sức khỏe không đảm bảo, neo đơn, trong đó rất nhiều người còn chưa biết chữ, chưa bao giờ ra khỏi làng, bởi vậy việc làm thủ tục xin phong danh hiệu sẽ càng thêm khó khăn. Nghệ nhân chủ yếu lớn tuổi, ở khu vực nông thôn, ít cập nhật văn bản, chính sách. Theo Nghị định thì nghệ nhân phải tự làm hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác trong việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị xét tặng.

Để tháo gỡ những khó khăn này, các cơ quan quản lý, UBND các huyện, thị xã, thành phố, Phòng VHTT cấp huyện, các đơn vị liên quan và những nhà làm công tác nghiên cứu cần có những giải pháp để giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nghệ nhân hoàn chỉnh hồ sơ xét tặng danh hiệu theo quy định.

Theo Nghị định 62, các nghệ nhân được phong tặng danh hiệu sẽ được nhận một khoản tiền thưởng. Nhưng cái thiết thực đối với các nghệ nhân là một chế độ ưu đãi trong xã hội, cơ chế, điều kiện thuận lợi cho họ được biểu diễn, truyền dạy, bảo tồn vốn cổ... cụ thể như thế nào lại chưa được Nghị định đề cập tới. Do vậy cần thiết phải quy định cụ thể đến các chế độ ưu đãi thỏa đáng cho các nghệ nhân sau khi được công nhận Nghệ nhân ưu tú, Nghệ nhân dân, để họ có thêm niềm vui, động lực truyền dạy cho thế hệ sau gìn giữ di sản văn hóa cha ông để lại.

Có thể nói, Nghị định 62 được ban hành là niềm vui cho những nghệ nhân có cống hiến cho sự phát triển trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, để chính sách này đi vào cuộc sống, mang tới những điều kiện tốt đẹp cho các nghệ nhân được phong tặng còn khá nhiều công việc cần phải tiến hành gấp rút. Trong đó, các cơ quan truyền thông cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn để cộng đồng, mọi tầng lớp nhân dân và đông đảo nghệ nhận hiểu, tích cực hưởng ứng.

Hy vọng rằng, với sự tích cực vào cuộc một cách đồng bộ, kịp thời của các cấp, ngành, những đóng góp của các nghệ nhân dân gian trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống mà cha ông để lại sẽ được ghi nhận, tôn vinh một cách xứng đáng, kịp thời, đúng người, đúng việc.

BM
Tin cùng nhóm
Các tin khác
Xem tin theo ngày  

Liên kết dạng logo
di sản thế giớidi sản xanhlễ hội Việt Nambáo sức khỏe và đời sốngBáo Thừa Thiên Huếbáo gia đìnhBộ VHTTDL