Mấy ngày nay, cánh đồng Bàu Vá trước mặt nhà tôi đã thành một công trường khói bụi. Không lâu nữa, cánh đồng sẽ nhường chỗ cho những khu dân cư mới mọc lên.
Rồi người ta cũng sẽ chóng quên nơi đây từng là cánh đồng xanh và thoang thoảng hương thơm của các loài rau gia vị cung cấp cho các chợ ở Huế. Trên cánh đồng này, những người nông dân trong phố trồng nhiều nhất là rau răm, kế đến là rau thơm. Rau răm phổ biến trên bàn ăn Việt, còn rau thơm là một loài rau của ẩm thực xứ Huế, có vị cay nồng rất dễ chịu.
Có một chi tiết khá thú vị: rau thơm chỉ trồng nhiều ở hai nơi là làng rau Ngọc Hà (Hà Nội) và ở Huế. Ở đây phải phân biệt rau thơm khác với rau gia vị tương tự như rau húng, bạc hà... Nói cách khác là chỉ có chất đất ở Ngọc Hà và Huế mới trồng được rau thơm, trồng ở chỗ khác rau sẽ không cho hương vị thơm cay nồng đặc biệt rất riêng.
Người Huế đi xa, nhớ quay quắt vị rau thơm xứ mình, mỗi lần về quê ăn bún bò giò heo phải xin đĩa rau sống thiệt nhiều rau thơm để ăn cho đã thèm. Hay mới đây, người bạn rủ tôi qua Thành nội tìm gánh bún bò bên đường mà theo lời kể của bạn là: "Mệ bán bún khi mô cũng cột mấy sợi lạt vô mấy cái khoanh heo và rau sống thì có rau thơm, tía tô, kinh giới...". Tiếc là qua tìm thì quán đã không còn. Những ký ức về Huế cứ mất dần như vậy.
Hôm bạn bè cấp 3 của tôi tổ chức họp mặt với thầy cô giáo cũ ở Huế, cô giáo đã về hưu mời chúng tôi dùng thử mấy lát mứt hơi lạ: "Mấy đứa em nếm thử xem có biết là mứt chi không". Đó là mứt vỏ trái thanh trà, ngọt ngọt, the the, cay cay mà theo lời cô: "Mứt ni ăn không chỉ cho vui mà còn chống cảm, ho và cả cái lạnh nữa".
Ăn mứt vỏ thanh trà khiến tôi nhớ lại mấy thứ vỏ củ, quả ngày trước mẹ hay muối chua để nấu canh. Trái bầu khi ăn tươi thì gọt vỏ, nhưng khi muối chua thì để nguyên cả vỏ ăn mới ngon, quả dưa hường cũng vậy.
Nhưng lạ nhất là món vỏ sắn muối chua. Vỏ sắn ăn tươi không được vì độc tính nhưng xắt nhỏ ra rồi muối chua thì có thể nấu canh ăn. Món canh chua vỏ sắn lâu lắm rồi không thấy, nó thịnh hành hồi những năm 1980 khi kinh tế khó khăn, thiếu thốn, các mệ mới nảy ra sáng kiến muối chua vỏ sắn nấu canh.
Cô giáo là con gái Huế rặt, dạy môn sử. Tiết học của cô luôn được học trò chờ đợi. Chẳng những dạy hay, cô còn là "sứ giả" của văn hóa Huế, ẩm thực Huế đối với lũ học trò ở một vùng quê xa ngái như chúng tôi. Cô là cô giáo đầu tiên mặc áo dài lên lớp vào những năm khốn khó của đất nước. Cô kể: "Năm 1984, lần đầu tiên cô mặc áo dài lên lớp và đối với học sinh, đây là sự kiện lạ lùng, vì đám cưới ngày đó còn phải mượn nhau chiếc dù để phù dâu...". Hay có lần cô đọc bài vè về các món ăn bình dân xứ Huế: "Hai tay bóc bánh lọc tôm/ Con mắt thì nhắm cái mồm hả ra..." là nói về chuyện ăn cay của người Huế, cay đến nhắm mắt nhắm mũi nhưng vẫn thèm.
Nếm miếng mứt vỏ thanh trà từ tay cô làm, nghe cô kể: "Cô vẫn thường gội đầu bằng nồi nước tổng hợp hoa lá trong vườn nhà, có mùi thơm, vị cay nồng thiệt dễ chịu, bởi rứa nghỉ hưu rồi, con cái đã lớn nhưng đi mô xa mấy ngày là cứ muốn về Huế ngay!".
Chợt nhớ câu chuyện áo dài, bài vè bánh lọc ngày trước của cô, tôi nhận ra một điều: Cô đã làm môn Sử vốn khô khan trở nên hấp dẫn bằng chất văn của một nữ sinh Đồng Khánh - Huế ngày xưa...